Trư Linh
- rư linh là một loại nấm có nắp (Basidiomycetes), sống được tại những vùng khí hậu khác biệt, gặp ở Đông Á châu và Bắc Mỹ. Khối nấm (sclerotium) không có dạng thuần nhất, thường là những cục dài, ngắn không đều, đôi khi dẹp, có khi phân nhánh như gừng, kích thước cỡ 2.5 x 4 x 3-10 cm. Mặt ngoài màu nâu đen, có thể nhăn nheo, xếp lớp hay cong vòng. Khi cắt ngang, thiết diện màu trắng đến nâu nhạt.
Tên khoa học: Polyporus umbellatus (Pers.) Fries – Polyporaceae
Giới thiệu: Trư linh là một loại nấm có nắp (Basidiomycetes), sống được tại những vùng khí hậu khác biệt, gặp ở Đông Á châu và Bắc Mỹ. Khối nấm (sclerotium) không có dạng thuần nhất, thường là những cục dài, ngắn không đều, đôi khi dẹp, có khi phân nhánh như gừng, kích thước cỡ 2.5 x 4 x 3-10 cm. Mặt ngoài màu nâu đen, có thể nhăn nheo, xếp lớp hay cong vòng. Khi cắt ngang, thiết diện màu trắng đến nâu nhạt.
Nấm sống ký sinh trên các cây thân mộc như Sồi, Beech, Mahogany (những cây thuộc loại gỗ cứng), và cả trên rễ Maple, và trên thân cây mục. Nấm phát triển vào cuối mùa Hè sang đến đầu mùa Thu. Tuy được dùng làm thuốc nhưng nấm cũng là một món ăn khá ngon và được ưa chuộng tại Nhật, Trung Quốc.
Mô tả dược liệu: Xốp, ngoài hơi đen, trong trắng ngà là tốt. Thứ tốt không thấm nước, không mủn.
Thành phần hoá học: có Albumin, chất xơ, chất đường...
Tính vị: Vị ngọt, nhạt, tính bình.
Quy kinh: Vào kinh Thận và Bàng quang.
Tác dụng: Lợi tiểu, thấm thấp.
Chủ trị: Tiểu ít, thuỷ thũng, trướng đầy, trị lâm lậu, bạch trọc, bạch đái.
Liều dùng: Ngày dùng 8 - 16g.
Kiêng ky: Không có thấp nhiệt thì không nên dùng.
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Cạo bỏ vỏ thô, lấy nước sông chảy (Trường lưu thuỷ) ngâm một đêm, đến sáng vớt ra thái lát mỏng, lấy lá thăng ma lẫn với nó đồ 3 giờ, bỏ lá phơi khô dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
Dùng Trư linh để trừ thấp thì dùng sống.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch thái mỏng, phơi khô.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, tránh ẩm.
Giới thiệu: Trư linh là một loại nấm có nắp (Basidiomycetes), sống được tại những vùng khí hậu khác biệt, gặp ở Đông Á châu và Bắc Mỹ. Khối nấm (sclerotium) không có dạng thuần nhất, thường là những cục dài, ngắn không đều, đôi khi dẹp, có khi phân nhánh như gừng, kích thước cỡ 2.5 x 4 x 3-10 cm. Mặt ngoài màu nâu đen, có thể nhăn nheo, xếp lớp hay cong vòng. Khi cắt ngang, thiết diện màu trắng đến nâu nhạt.
Nấm sống ký sinh trên các cây thân mộc như Sồi, Beech, Mahogany (những cây thuộc loại gỗ cứng), và cả trên rễ Maple, và trên thân cây mục. Nấm phát triển vào cuối mùa Hè sang đến đầu mùa Thu. Tuy được dùng làm thuốc nhưng nấm cũng là một món ăn khá ngon và được ưa chuộng tại Nhật, Trung Quốc.
Mô tả dược liệu: Xốp, ngoài hơi đen, trong trắng ngà là tốt. Thứ tốt không thấm nước, không mủn.
Thành phần hoá học: có Albumin, chất xơ, chất đường...
Tính vị: Vị ngọt, nhạt, tính bình.
Quy kinh: Vào kinh Thận và Bàng quang.
Tác dụng: Lợi tiểu, thấm thấp.
Chủ trị: Tiểu ít, thuỷ thũng, trướng đầy, trị lâm lậu, bạch trọc, bạch đái.
Liều dùng: Ngày dùng 8 - 16g.
Kiêng ky: Không có thấp nhiệt thì không nên dùng.
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Cạo bỏ vỏ thô, lấy nước sông chảy (Trường lưu thuỷ) ngâm một đêm, đến sáng vớt ra thái lát mỏng, lấy lá thăng ma lẫn với nó đồ 3 giờ, bỏ lá phơi khô dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
Dùng Trư linh để trừ thấp thì dùng sống.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch thái mỏng, phơi khô.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, tránh ẩm.