Tên gọi khác: Sơn nại, Tam nại
Tên khoa học: Kaempferia galanga L. - Zingiberaceae
Giới thiệu: Cây thân thảo sống lâu năm, thân rễ hình trứng, gồm nhiều củ nhỏ. Lá 2 - 3 cái một, mọc xòe ra trên mặt đất, có bẹ, phiến rộng hình bầu dục, thót hẹp lại thành cuống, mép nguyên, hơi có lông ở mặt dưới. Hoa trắng pha tím, không cuống, mọc ở nách lá. Toàn cây nhất là thân rễ có mùi thơm và vị nồng. Hoa tháng 5 - 7.
Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi trong cả nước. Cây còn mọc ở Cămpuchia, Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Đài loan), Malayxia, Ấn Độ.
Thu hái, sơ chế: Thu hái vào mùa khô, cần chọn những cây đã trên hai năm. Đào củ, rửa sạch đất cát, thái thành miếng mỏng, xông diêm sinh một ngày rồi đem phơi khô. Tuyệt đối không sấy than vì củ sẽ đen, mùi kém thơm.
Mô tả dược liệu: Phiến dày 2 - 5 mm, đường kính 0,6 cm trở lên, hơi cong lên. Mặt cắt màu trắng ngà, có khi hơi ngà vàng. Xung quanh là vỏ ngoài màu vàng nâu hoặc màu tro nhạt, nhăn nheo, có khi còn sót lại rễ con hoặc vết tích rễ con. Thể chất giòn dễ bẻ, có bột. Mùi thơm đặc trưng, vị hơi cay.
Tính vị: Vị cay tính ôn
Qui kinh: Vào kinh Tỳ và Vị.
Thành phần hoá học: Trong địa liền có tinh dầu, trong tinh dầu thành phần chủ yếu là bocneola metyl, metyl p.cumaric axitetyl este, xinamic axit etyl este, pentadecan C15H32 xinamic andehyt và xineola.
Tác dụng: Ôn trung tán hàn, trừ thấp, tránh uế.
Công dụng: Chữa ngực bụng lạnh đau, đau răng; làm cho ăn ngon, chóng tiêu; còn dùng làm thuốc xông. Ngâm rượu dùng xoa bóp chữa tê phù, tê thấp, đau nhức. Còn dùng trong kỹ nghệ cất tinh dầu chế nước hoa.
Liều dùng: 2 - 4g, dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột, thuốc viên hay pha chế như chè mà uống.
Kiêng kỵ: Âm hư, thiếu máu hoặc vị có hoả uất không dùng.
Bảo quản: Địa liền rất dễ bảo quản, hầu như không bị mốc mọt mặc dầu điều kiện bảo quản không hơn so với các vị thuốc khác.
Tên khoa học: Kaempferia galanga L. - Zingiberaceae
Giới thiệu: Cây thân thảo sống lâu năm, thân rễ hình trứng, gồm nhiều củ nhỏ. Lá 2 - 3 cái một, mọc xòe ra trên mặt đất, có bẹ, phiến rộng hình bầu dục, thót hẹp lại thành cuống, mép nguyên, hơi có lông ở mặt dưới. Hoa trắng pha tím, không cuống, mọc ở nách lá. Toàn cây nhất là thân rễ có mùi thơm và vị nồng. Hoa tháng 5 - 7.
Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi trong cả nước. Cây còn mọc ở Cămpuchia, Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Đài loan), Malayxia, Ấn Độ.
Thu hái, sơ chế: Thu hái vào mùa khô, cần chọn những cây đã trên hai năm. Đào củ, rửa sạch đất cát, thái thành miếng mỏng, xông diêm sinh một ngày rồi đem phơi khô. Tuyệt đối không sấy than vì củ sẽ đen, mùi kém thơm.
Mô tả dược liệu: Phiến dày 2 - 5 mm, đường kính 0,6 cm trở lên, hơi cong lên. Mặt cắt màu trắng ngà, có khi hơi ngà vàng. Xung quanh là vỏ ngoài màu vàng nâu hoặc màu tro nhạt, nhăn nheo, có khi còn sót lại rễ con hoặc vết tích rễ con. Thể chất giòn dễ bẻ, có bột. Mùi thơm đặc trưng, vị hơi cay.
Tính vị: Vị cay tính ôn
Qui kinh: Vào kinh Tỳ và Vị.
Thành phần hoá học: Trong địa liền có tinh dầu, trong tinh dầu thành phần chủ yếu là bocneola metyl, metyl p.cumaric axitetyl este, xinamic axit etyl este, pentadecan C15H32 xinamic andehyt và xineola.
Tác dụng: Ôn trung tán hàn, trừ thấp, tránh uế.
Công dụng: Chữa ngực bụng lạnh đau, đau răng; làm cho ăn ngon, chóng tiêu; còn dùng làm thuốc xông. Ngâm rượu dùng xoa bóp chữa tê phù, tê thấp, đau nhức. Còn dùng trong kỹ nghệ cất tinh dầu chế nước hoa.
Liều dùng: 2 - 4g, dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột, thuốc viên hay pha chế như chè mà uống.
Kiêng kỵ: Âm hư, thiếu máu hoặc vị có hoả uất không dùng.
Bảo quản: Địa liền rất dễ bảo quản, hầu như không bị mốc mọt mặc dầu điều kiện bảo quản không hơn so với các vị thuốc khác.